Đánh giá các quy định về xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

I. Căn cứ pháp lý:

  • Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
  • Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, ngày 28/01/2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

II. Pháp luật hiện hành về việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

  1. Đối với cặp vợ chồng vô sinh

Quy định tại Điều 88, Luật HN&GĐ năm 2014: “1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng”.

  1. Đối với phụ nữ độc thân

Theo khoản 2 Điều 93 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “Trong trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra”. Tức là, người phụ nữ độc thân này đương nhiên là mẹ của đứa trẻ được sinh ra đó.

     3.Đối với trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Việc xác định cha mẹ đối với trường hợp này được ghi nhận cụ thể tại Điều 94 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời đểm con được sinh ra”. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không làm phát sinh mối quan hệ cha, mẹ, con giữa vợ chồng người được nhờ mang thai hộ với đứa trẻ được sinh ra.

III. Đánh giá việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo Luật HN&GĐ.

  1. Những điểm tích cực
  • Thứ nhất, nhằm đảm bảo mọi quyền lợi cho cặp vợ chồng, người phụ nữ độc thân và đặc biệt là đứa trẻ.
  • Thứ hai, việc quy định cho người phụ nữ đơn thân được phép nhận phôi thể hiện được tính nhân đạo của pháp luật.
  • Thứ ba, theo khoản 3, Điều 93, Luật HN&GĐ năm 2014 còn quy định: “Việc sinh con kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ, con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra”. Quy định trên cũng nhằm tránh những tranh chấp về quan hệ cha, mẹ, con của các chủ thể liên quan, là cơ sở đảm bảo ổn định mối quan hệ cha, mẹ, con
  • Thứ tư, việc phổ biến sinh con theo phương pháp hỗ trợ sinh sản sẽ góp phần giảm thiểu tình trạng “mang thai hộ, đẻ thuê” đang diễn ra rất phổ biến và là một trong những vấn đề nóng hổi, đáng bàn luận hiện nay.
  • Thứ năm, việc sinh con theo phương pháp hỗ trợ sinh sản đã thể hiện tính nhân bản cao đẹp, thể hiện truyền thống nhân đạo của dân tộc.
  1. Một số điểm hạn chế và giải pháp hoàn thiện:
  • Thứ nhất, là về đối tượng áp dụng phương pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản: Nên nêu rõ là cặp vợ chồng vô sinh hợp pháp theo LHN&GĐ.
  • Thứ hai, cần bổ sung các trường hợp được phép thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cụ thể và rõ ràng hơn.
  • Thứ ba, nên bổ sung quy định kết hôn giữa những người ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Bởi việc cho nhận trứng, tinh trùng, phôi được tuân thủ theo nguyên tắc bí mật, cha, mẹ pháp lý và cha, mẹ sinh học của đứa trẻ được sinh ra là khác nhau nên có thể dẫn đến trường hợp đứa trẻ được sinh ra khác nhau dẫn đến trường hợp đứa trẻ đó lớn lên, kết hôn với người có cũng huyết thống về mặt sinh học với mình, gây hậu quả xấu cho xã hội.

Mọi thắc mắc xin vui lòng liên hệ với Luật Bản Phủ qua số hotline 0913248551 hoặc email: luatbanphu@gmail.com để được tư vấn cụ thể chính xác nhất!